
Để Công Lý mãi xanh…
Trước khi quen biết Chị qua blog, và trước cả khi được gặp Chị ngòai đời, tôi và gia đình biết Chị qua những bài viết Ký Sự Pháp Đình ( KSPĐ) trên Báo Tuổi Trẻ. Năm 1996, Nhà xuất bản Trẻ xuất bản cuốn Ký Sự Pháp đình – tập 1 và phải đến 2 năm sau – năm 1998 - cuốn Ký sự Pháp đình tập 2 mới được tiếp tục ra mắt độc giả. Cả hai cuốn đều có trong tủ sách gia đình nhà tôi, với lời đề tựa của “thủ thư”: “Tôi mua – đọc – để tự răn mình…”. Sửa nhà, bị thất lạc một lần, tôi đã tìm muốn chết. Bà chị ba, một hôm hộc tốc chạy về nói mượn hai cuốn KSPĐ để đọc vì có chuyện cần. Tôi “cắn răng” cho mượn. Cả 3-4 năm, đòi mãi, một hôm bà ỏn ẻn đem xuống cuốn 2 và nói: Hic, cuốn 1 chị tìm không thấy, xin lỗi Mập! Trời ơi, tôi gầm gừ như một con khùng suốt hôm ấy với chị mình, tiếc đứt ruột. Đến khi quen biết Chị, tôi nhiều lần ướm hỏi, định sẽ lân la xin Chị một cuốn để “bổ sung”, tôi muốn khóc tiếng Mán, khi Chị nói Ở nhà Chị cũng hông còn cuốn nào…
Chiều hôm nay phải về tìm cuốn Lệ Chi Viên cho em giáo viên dạy Sử ở Trường mượn, tôi lục tung tủ sách và không tin được mắt
mình khi tìm thấy đủ hai cuốn KSPĐ… hehe, “châu về hiệp phố” hồi nào mà tôi không hay. Ngồi lật lại hai cuốn sách, đọc lại những chuyện vụ án mà mình từng đọc nhiều lần, mới ngộ thêm nhiều điều mới, mới thấy văn chương quả là lợi hại. Cũng một tình tiết tội ác ấy, ta nhìn nó ở khía cạnh để tha, thì nó thành bớt ác, mà nhìn ở khía cạnh để kết án, thì nó án chồng án…Tôi bây giờ mới đọc trọn những lời giới thiệu ( tôi ít khi đọc lời bạt của sách, vì luôn muốn mình có “chánh kiến” không lệ thuộc cái nhìn của ai khi đọc sách) của Anh Nguyễn Đông Thức ở tập 1 và Anh Lê Văn Nuôi cùng nhà văn lão thành Võ Hồng ở tập 2. Một người là bạn đồng nghiệp, một người là Sếp và một người nữa là Bạn Văn của tác giả. Để thấy, đằng sau những
lời bạt trân trọng dành cho một cái tài, tôi thấy họ còn dành một cái cười rất thân ái cho cái tính cách của người nữ đồng nghiệp rất “không giống ai” của họ. Không chỉ cười, còn là cái kính trọng rất riêng của những người làm báo có nghề dành cho nhau…
Tôi biết Chị đủ chưa để có thể dài lời hơn? Nên ngừng ở nơi này khi cái vui “thấy sách” còn ở trong lòng. Tôi trích đăng lại lời những người đọc dành cho Chị, theo tôi, đây là một thứ “huân chương ưu tú” mà người dính dấp đến Cõi Văn muốn có được nhất trong đời làm nghề của mình…
Độc giả với
KÝ SỰ PHÁP ĐÌNH
“…Đọc lại các bài, không những vẫn tươi mát mà còn thêm vẻ trang trọng nhờ thành sách. Từ lâu, tôi đã đánh giá cao các bài của Thủy Cúc có một suy nghĩ độc lập, ăn nói bộc trực, không thích hoa hòe, hoa sói của đứa con gái Nam bộ, Sài gòn.
Nhờ tập trung lại, các bài viết tóat lên một lòng nhân ái, một niềm trắc ẩn đối với cái không may, cái bạc phận, cái hẩm hiu của số kiếp người không được phước phần như người khác. Thủy Cúc là cây viết “nhân ái” thứ hai của Tuổi Trẻ. Rất mong còn có tập II, III, để làm pho ký sự pháp đình, lưu lại cho hậu thế …” ( Ông Lâm Võ Hòang- chuyên viên kinh tế)
“…Thú thật có nhiều chỗ tôi đã khóc khi đọc. Thủy Cúc viết, “vẽ” sao tài tình thế. Cứ như là đi vào trong tim người ta vậy. Tôi đã từng nói với Thủy Cúc rằng tôi mong Cúc trở thành một luật sư, vì tôi tin rằng với tài năng đó, nhất là với tấm lòng đó, sự tinh tế đó, Cúc sẽ là một luật sư xuất sắc, “cứu” được nhiều người” ( Luật sư Trương Thị Hòa)
“…Trước đây tôi vẫn nói với Đông Thức (1) về những bài phóng sự của Thủy Cúc mà tôi rất thích và rất phục. Tuổi già, đọc xong một bài, thấy hay lúc đó nhưng rồi lại dễ quên, nay có cả một tập gồm những bài ký sự mình đã đọc rồi, thật không còn gì thích bằng.
Thế hệ này có nhiều cây bút trẻ rất có tài, trong ấy có Thủy Cúc, nhưng còn cách thể hiện một bài phóng sự, chuyện xét xử ở tòa án mà thu hút được độc giả không phải là chuyện dễ. Và không phải cứ có sách xuất bản, có bài trên các báo thì đương nhiên là nhà văn; tôi mến Thủy Cúc vì lý do lối viết sống động, nói rất ít mà khiến người đọc – người có tâm huyết- phải nghĩ nhiều, thật nhiều…” ( Bà Tùng Long)
Trong hai cuốn KSPĐ, tôi thích nhất bài viết Tĩnh Vật của Chị ở
phần cuối cuốn 1. Trong bài viết này, tôi như nhìn thấy tòan cảnh một tòa án nào đó sau giờ làm việc. Những con người mang đến sự sống động ở nơi này không còn, chỉ còn bàn ghế, và những đồ vật vô tri khác cho hình thức một phiên tòa như cái vành móng ngựa, như cái bảng gỗ khắc tên vị trí của những thành viên tại tòa. Thế nhưng trong cái im ắng “cuối chầu” đó, tác giả như lắng lòng mình lại cho những cái án đã qua, đã được xử, cho những con người mà ít khắc trước còn bình đẳng với mình về vị trí xã hội, thì sau khi bị kêu án, họ chỉ còn lại nơi nhân thân hai tiếng lạnh lùng “bị cáo”. Chị không quên nhìn về nơi chiếc ghế cao nhất của Tòa, chiếc ghế của hội đồng xét xử. Nhìn và nghĩ, rất nhân văn : “Những chiếc ghế không làm nên
được con người”. Cũng như có một điều Chị thắc mắc, mà theo tôi, ẩn chứa trong đó cũng là một “nỗi niềm”: Thanh gỗ của vành móng ngựa tại sao không là đường thẳng mà lại là một đường cong?
Tôi lạnh người – như từng nhiều lần lạnh – trước câu kết của Chị : “Trong phòng xử án còn một tĩnh vật nữa. Đó là tôi” . Câu kết như một nhắc nhở cho chính mình mà tôi nghe như một lời nhắc nhở cho nhiều người. Xin đừng vô cảm trước số phận của bất cứ con người nào…
Và với tôi, bằng câu kết đó KSPĐ trở thành một cuốn sách góp phần không nhỏ cho việc giữ gìn
Công Lý mãi xanh…